Quảng Bình-Hào khí 420 năm (1604-2024)

  • 07:06 | Thứ Bảy, 04/05/2024
  • icon gmail
  • icon facebook
  • icon youtube
(Tiếp theo)
 
2.4. Quảng Bình thời kỳ Bình Trị Thiên (1975-1989)
 
Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc ta đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn. Cùng với cả nước, Đảng bộ, quân và dân Quảng Bình bắt tay khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
 
Tháng 3/1976, thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ, ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế và khu vực Vĩnh Linh hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên. 13 năm nhập tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các nghị quyết Đại hội IV, V, VI của Đảng và các nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ I, II, III, IV, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng tỉnh Bình Trị Thiên giàu mạnh.
 
Đây là thời kỳ Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách. Cuộc khủng hoảng KT-XH của đất nước và lệnh cấm vận của Mỹ trong những năm 80 làm cho đời sống của nhân dân hết sức khó khăn. Trong lúc đó, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tác động tiêu cực đến tình hình KT-XH ở nước ta, ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nhưng với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
 
Để phù hợp với thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, phù hợp với yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới chính sách KT-XH, phát huy thế mạnh từng địa phương, thực hiện Nghị quyết của kỳ họp lần thứ 5, Quốc hội khoá VIII, tỉnh Bình Trị Thiên được chia thành ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Ngày 1/7/1989, tỉnh Quảng Bình tái thành lập, trở về với địa giới hành chính và tên gọi vốn có trong lịch sử. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân đã phát huy truyền thống quê hương “Hai giỏi”, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và đã thu được những kết quả rất đáng tự hào.
 
2.5. Quảng Bình sau ngày tái lập
 
Phát huy truyền thống “Quảng Bình quật khởi” trong chống Pháp và “Quảng Bình Hai giỏi” trong kháng chiến chống Mỹ, từ ngày tái lập tỉnh đến nay, được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân trong tỉnh đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn, phát huy nội lực, khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế, đưa tỉnh nhà phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
 
2.5.1. Về kinh tế
 
Thành tựu nổi bật sau 35 năm tái lập tỉnh, Quảng Bình đã khắc phục được tình trạng trì trệ, đưa nền kinh tế từng bước thoát khỏi khủng hoảng, phát triển và đi vào thế ổn định, tốc độ tăng trưởng GRDP khá, quy mô nền kinh tế không ngừng được nâng lên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP giai đoạn từ 1991-1995 là 8,49%, từ 2005-2010 là 11%.
 
Trong giai đoạn 2010-2020, do ảnh hưởng của thiên tai và suy thoái kinh tế toàn cầu, sự cố môi trường biển, dịch Covid-19 nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn đạt trên 6,0%; năm 2023 đạt 7,21%, đây là sự nỗ lực lớn của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. GRDP bình quân đầu người được cải thiện đáng kể, năm 1990 là 0,46 triệu đồng, đến năm 2021 lên 49,3 triệu đồng, năm 2023 lên 60 triệu đồng; tỷ trọng công nghiệp-xây dựng và dịch vụ tăng; nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm nhờ tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp, dịch vụ luôn duy trì ở mức cao.
 
Sản lượng lương thực không ngừng tăng, góp phần quan trọng trong bảo đảm an ninh lương thực và ổn định đời sống nhân dân. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục tăng trưởng, giá trị sản xuất tăng bình quân 3,07%/năm. Tỷ trọng ngành chăn nuôi không ngừng tăng. Lâm nghiệp chuyển đổi theo hướng lâm nghiệp xã hội; công tác quản lý và bảo vệ rừng được tăng cường. Thủy sản được xác định là ngành kinh tế quan trọng.
 
Tỉnh đã chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nuôi trồng, khai thác và dịch vụ nên sản xuất thủy sản phát triển nhanh, sản lượng tăng cao, với đội tàu đánh bắt vùng biển xa đứng thứ ba toàn quốc. Sản xuất lâm nghiệp từng bước được xã hội hóa và chuyển đổi theo hướng nâng cao giá trị. Công tác quản lý và bảo vệ rừng được tăng cường, tỷ lệ che phủ rừng đứng thứ 2 toàn quốc, đạt 68,69% (năm 2023).
 
Công nghiệp, từ xuất phát điểm gần như trắng nhưng đến nay, từng bước khẳng định vai trò là ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh. Sản xuất công nghiệp từng bước tăng trưởng, quy mô giá trị sản xuất công nghiệp tăng gần 46 lần (Năm 1990 là 271,7 tỷ đồng, đến năm 2021 đạt 13.865 tỷ đồng; giai đoạn 2021-2023 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng bình quân 10,3%/năm). Tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn có bước phát triển khá, đóng góp đáng kể cho ngân sách địa phương.
 
Hiện nay, nhiều sản phẩm có giá trị cao và có sức cạnh tranh trên thị trường, nhiều sản phẩm đã xây dựng được thương hiệu. Hoạt động thương mại, dịch vụ chuyển biến tiến bộ. Quy mô thị trường tăng nhanh; mạng lưới kinh doanh thương mại mở rộng xuống tận địa bàn khu dân cư. Hàng hóa trên thị trường phong phú, đa dạng, đáp ứng khá tốt nhu cầu các tầng lớp dân cư. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng liên tục qua các năm.
 
Thị trường dịch vụ của tỉnh đã có sự phát triển mạnh mẽ, góp phần tích cực cho tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống nhân dân. Đến nay, đóng góp của dịch vụ trong cơ cấu GRDP chiếm tỷ trọng trên 49,54%. Cơ sở vật chất ngành Vận tải đã tăng lên đáng kể. Dịch vụ bưu chính-viễn thông phát triển nhanh, mạng lưới viễn thông đã được hiện đại hóa về cơ bản.
Hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị được chú trọng đầu tư ngày càng đồng bộ, hiện đại.
Hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị được chú trọng đầu tư ngày càng đồng bộ, hiện đại. Ảnh: M.V
 
Du lịch có nhiều khởi sắc và dần khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn. Trong 35 năm qua, tỉnh đã hình thành thêm nhiều điểm tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng. Tổng số khách du lịch đến tỉnh Quảng Bình ngày một tăng cao. Giai đoạn 1990-1999 đạt gần 0,6 triệu lượt khách, giai đoạn 2016-2020 đạt 19,7 triệu lượt khách; năm 2022 đạt hơn 2,1 triệu lượt, gấp 3,7 lần so với năm 2021; năm 2023 đạt hơn 4,5 triệu lượt khách, gấp 2,1 lần so với cùng kỳ và vượt gần 29% so với kế hoạch đề ra. Thương hiệu du lịch Quảng Bình được khẳng định ở tầm quốc gia, khu vực và thế giới, là điểm sáng trên bản đồ du lịch Việt Nam.
 
Một số điểm du lịch có tiềm năng lớn trở thành điểm đến tầm cỡ thế giới. Làng du lịch Tân Hóa (Minh Hóa) được Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) vinh danh là Làng du lịch tốt nhất thế giới năm 2023. Du lịch Quảng Bình đã và đang từng bước khẳng định vị thế của mình trong công cuộc xây dựng và phát triển KT-XH của tỉnh, giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, góp phần quảng bá hình ảnh văn hóa và con người Quảng Bình tới bạn bè trong nước và quốc tế.
 
Hoạt động tài chính, tín dụng có nhiều tiến bộ. Thu ngân sách nhà nước tăng bình quân khoảng 15-20%/năm. Hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng đã bám sát các chính sách tiền tệ, tín dụng của Chính phủ và mục tiêu phát triển của tỉnh để huy động và cho vay vốn, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp (DN). Năm 2023, tổng nguồn vốn huy động đạt gần 58.700 tỷ đồng, tăng 6,5%.
 
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) được triển khai sâu rộng và đạt được kết quả tích cực. Kết cấu hạ tầng nông thôn tiếp tục được đầu tư, đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn đổi mới toàn diện; số xã đạt tiêu chí NTM ngày một tăng cao. Đến năm 2023, có 93/128 xã đạt NTM, đạt 73%; trong đó, 5 xã đạt chuẩn NTM nâng cao; có 36 khu dân cư kiểu mẫu và 44 vườn mẫu. Toàn tỉnh hiện có 145 sản phẩm OCOP được công nhận (tăng 81 sản phẩm so với năm 2020); đến hết năm 2023, có 34 sản phẩm OCOP 4 sao, đạt và vượt kế hoạch giai đoạn 2021-2025.
 
Hoạt động xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh. Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư ngày càng có nhiều đổi mới và quyết liệt hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục được cải thiện mạnh mẽ với các cơ chế, chính sách rộng mở, thông thoáng; tỉnh đã tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến đầu tư trong nước và nước ngoài, nhờ đó, ngày càng thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến nghiên cứu, khảo sát, triển khai thực hiện nhiều công trình, dự án có quy mô lớn, có thương hiệu quốc tế.
 
Từ năm 2021 đến nay, đã phê duyệt và chấp thuận chủ trương đầu tư 147 dự án trong nước, với tổng vốn đăng ký hơn 28.000 tỷ đồng; thu hút 1 dự án có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), với số vốn đăng ký 54,6 triệu USD; 47 dự án phi chính phủ nước ngoài (NGO), giá trị cam kết viện trợ 9,5 triệu USD. Nhiều dự án đã triển khai thực hiện bảo đảm tiến độ, một số dự án đã tiến hành xây dựng và đi vào hoạt động hiệu quả, góp phần giải quyết việc làm và thu ngân sách, tạo động lực phát triển của tỉnh, như: Dự án may xuất khẩu của Công ty S&D; dự án đầu tư xây dựng trung tâm thương mại, khách sạn và Shophouse của Vingroup; sân golf Bảo Ninh-Hải Ninh; Cụm trang trại điện gió B&T...
 
Tỉnh đã tạo điều kiện, môi trường cạnh tranh bình đẳng để các thành phần kinh tế phát triển nhanh, trở thành động lực phát triển của nền kinh tế. Từ đầu năm 2021 đến nay, có thêm 1.627 DN được thành lập, nâng tổng số DN lên hơn 8.800 DN, với số vốn đăng ký gần 20.180 tỷ đồng.
 
Công tác quy hoạch, quản lý đô thị được chú trọng. Quy hoạch tỉnh Quảng Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật của tỉnh được đầu tư ngày càng đồng bộ, hiện đại, góp phần làm thay đổi bộ mặt từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
 
Một số công trình hạ tầng giao thông quan trọng được đầu tư xây dựng và phát huy hiệu quả, như: Quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh, sân bay Đồng Hới, cầu Gianh, cầu Quán Hàu, cầu Nhật Lệ 1 và 2, cầu Trung Quán, đường nối Khu Kinh tế Hòn La với Khu công nghiệp xi măng tập trung Tiến-Châu-Văn Hóa, đường Võ Nguyên Giáp, hệ thống đường từ cầu Nhật Lệ 2 đến đường Hồ Chí Minh nhánh Đông, các tuyến đường nối trục Đông-Tây, các tuyến đường nội thành TP. Đồng Hới,...
 
Dự án đường ven biển và cầu Nhật Lệ 3, đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông đoạn qua tỉnh đang được triển khai quyết liệt; cảng hàng không Đồng Hới chuẩn bị nâng cấp... sẽ là những tín hiệu mới, tạo động lực cho sự phát triển của tỉnh.
 
Giao thông nông thôn tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển. Hệ thống đê điều, thủy lợi, hồ chứa được nâng cấp, bảo đảm an toàn. Đến nay, 100% số xã có đường ô tô, điện lưới quốc gia đến trung tâm xã; mạng lưới bưu chính-viễn thông, phát thanh truyền hình phủ kín; chủ động nước tưới cho trên 100% diện tích lúa đông-xuân; 97% số dân ở nông thôn được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh...
 
Hạ tầng đô thị được quan tâm đầu tư. Nổi bật là TP. Đồng Hới kết cấu hạ tầng phát triển nhanh, được công nhận là đô thị loại II năm 2014; TX. Ba Đồn được thành lập năm 2013; khu vực thị trấn Hoàn Lão và khu vực thị trấn Kiến Giang mở rộng được công nhận đạt tiêu chí loại IV.
 
Các khu công nghiệp: Cảng biển Hòn La, Bắc Đồng Hới, Tây Bắc Đồng Hới, Tây Bắc Quán Hàu, Khu Kinh tế cửa khẩu Cha Lo... được đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật bảo đảm. Công tác quản lý tài nguyên, môi trường được tăng cường. Triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2020, 2021-2023. Việc kiểm soát ô nhiễm, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường được tiến hành thường xuyên. Quản lý tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước từng bước đi vào nền nếp.
 
(Theo Tài liệu tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)
(Còn nữa)

tin liên quan

Tuyến lửa Quảng Bình và "con đường Thống nhất"

(QBĐT) - Cuộc đời tôi có may mắn gặp những người cần gặp ở Quảng Bình, trong đó có ông Lại Văn Ly . Cuộc đời ông thực sự "quăng quật" vì những tuyến đường nơi tuyến lửa Quảng Bình. 

Tự hào Mùa Xuân đại thắng!

Gần nửa thế kỷ qua, Ngày Chiến thắng 30/4/1975 đã trở thành biểu tượng lịch sử vĩ đại của dân tộc, là niềm tự hào, là mốc son chói lọi cổ vũ nhân dân ta vượt qua khó khăn, thử thách, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Trị bệnh giáo điều của cán bộ, đảng viên ở cơ sở

Cán bộ, đảng viên là hạt nhân xây dựng tổ chức cơ sở đảng, là cầu nối giữa Ðảng với nhân dân; thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.